Cơ chế vận động của giá cả thị trường

Cơ chế vận động của giá cả thị trường

Bạn hiểu như thể nào về giá cả thị trường? cơ chế vận động của nó tronh nền kinh tế – xã hội như thế nào, hãy cùng tìm hiểu bài viết dưới đây của chúng tôi

1. Đặc điểm hình thành và vận động của giá cả thị trường

Giá thị trường là hiện tượng kinh tế xuất hiện trong quá trình trao đổi do sự thoả thuận trực tiếp giữa người mua và người bán trên cơ sở nhận thức những điều kiện cụ thể của thị trường, hay nói một cách tồng quát, do các lực lượng cầu và cung quyết định. Giá thị trường nhằm thoả mãn lợi ích kinh tế của cả bên mua lẫn bên bán, là “bàn tay vô hình” điều tiết nền sản xuất xã hội. Giá thị trường có các đặc điểm chủ yếu sau:

  • Sự hình thành và vận động của giá thị trường chịu sự chi phối mạnh mẽ các quy luật kinh tế của thị trường (quy luật giá trị, quy luật cung cầu và quy luật cạnh tranh). Các quy luật này tác động tới người mua và người bán như những lực lượng vô hình.
  • Giá cả trên thị trường trong nước không những phản ánh các quan hệ kinh tế trong nước, mà còn chịu ảnh hưởng lớn của giá cả trên thị trường thế giới.

Xem thêm >> Bản chất kinh tế của phạm trù giá cả

2. Các quy luật kinh tế chi phối sự vận động cửa giá cả thị trường

Các quy luật kinh tế của thị trường quyết định sự vận động của thị trường, do đó quyết định sự vận động của nền kinh tế thị trường. Các quy luật này có những đặc trưng chủ yếu sau

2.1 Đặc trưng của các quy luật kinh tế

Quy luật kinh tế là những mối quan hệ nhân quả, tất yếu và thường xuyên lặp đi lặp lại trong những hiện tượng và quá trình kinh tế khách quan. Quy luật kinh tế có tính khách quan và có các đặc trưng sau:

  • Các quy luật kinh tế của thị trường tạo ra động lực kinh tế, chính là những lợi ích vật chất mà những người tham giá thị trường có thể đạt được. Động lực kinh tế có vai trò quyết định thúc đẩy kinh tế phát triển. Trong đó lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp; tiếp đến là lợi ích tập thể lợi ích xã hội.
  • Trong nền kinh tế thị trường, các quy luật kinh tế của thị trường là quy luật trung tâm, là cơ sở, là động lực của các quy luật kinh tế khác và chi phối các hiện tượng kinh tế, nhưng chúng lại hoạt động một cách tự phát, vì vậy trong quản lý vĩ mô nền kinh tế, trước hết phải nhận thức rõ để vận dụng các điều tiết chúng vì lợi ích quốc gia.
  • Các quy luật kinh tế của thị trường (quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật cung – cầu) quyết định sự vận động của nền kinh tế thị trường, phát sinh và phát triển gắn liền với sự phát sinh và phát triển kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường. Quan hệ sản xuất không làm thay đổi được bản chất của các quy luật kinh tế đó. Sự phát triển của sức sản xuất rất khác nhau của các nền kinh tế ở các quốc gia chỉ làm cho hoạt động của các quy luật mang nhiều màu sắc khác nhau mà thôi.

2.2 Quy luật giá trị

Quy luật giá trị là quy luật căn bản của sản xuất hàng hóa. Sản xuất hàng hóa là sản xuất để bán, trao đổi.

Theo quy luật giá trị, sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết. Trong nền kinh tế hàng hóa, mỗi người sản xuất tự quyết định hao phí lao động cá biệt của mình, nhưng giá trị của hàng hóa không phải được quyết định bởi hao phí lao động cá biệt của từng người sản xuất hàng hóa, mà bởi hao phí lao động xã hội cần thiết. Vì vậy, muốn bán được hàng hóa, bù đắp được chi phí và có lãi, người sản xuất phải điều chỉnh làm cho hao phí lao động cá biệt của mình phù hợp với mức hao phí mà xã hội chấp nhận được.

Trao đổi hàng hóa cũng phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết, có nghĩa là trao đổi theo nguyên tắc ngang giá.

Sự vận động của quy luật giá trị thông qua sự vận động của giá cả hàng hóa. Vì giá trị là cơ sở của giá cả, nên trước hết giá cả phụ thuộc vào giá trị. Hàng hóa nào nhiều giá trị thì giá cả của nó sẽ cao và ngược lại. Trên thị trường, ngoài giá trị, giá cả còn phụ thuộc vào các nhân tố: cạnh tranh, cung cầu, sức mua của đồng tiền. Sự tác động của các nhân tố này, làm cho giá cả hàng hóa trên thị trường tách rời giá trị và lên xuống xoay quanh giá trị của nó. Sự vận động của giá cả xoay quanh giá trị của nó chính là cơ chế hoạt động của quy luật giá trị. Thông qua sự vận động của giá cả thị trường mà quy luật giá trị phát huy tác dụng.

2.3 Quy luật cạnh tranh

Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp, các chủ thể hành vi kinh tế, vì lợi ích riêng của bản thân mình mà tiến hàng cạnh tranh với nhau.

Cạnh tranh là sự đấu tranh giữa các chủ thể hành vi kinh tế, nhắm dành lợi ích tối đa của mình.

Cạnh tranh là yếu tố cơ bản của cơ chế thị trường. Nó là hiện tượng tự nhiên, tất yếu cảu kinh tế thị trường, ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hóa, thì ở đó có cạnh tranh.

Cạnh tranh là cơ chế điều chỉnh linh hoạt sản xuất xã hội và do đó làm cho sự phân bổ các nguồn lực kinh tế của xã hội một cách tối ưu nhất. Cạnh tranh kích thích tiến bộ khoa học, kỹ thuật, áp dụng kỹ thuật mới vào sản xuất và góp phần tạo nên cơ sở cho sự phân phối thu nhập lần đầu.

Cạnh tranh là hoạt động phổ biến trên thị trường. Cạnh tranh thường diễn ra qua những người bán với người mua, giữa những người bán với nhau và cạnh tranh giữa những người mua với nhau. Do mâu thuẫn về lợi ích kinh tế, nên những người bán và người mua cạnh tranh gay gắt với nhau. Tuy nhiên, sự cạnh tranh này được khắc phục bằng cơ chế thỏa thuận trực tiếp giữa họ, đều đạt được mức giá mà mỗi cá nhân đều không có khả năng ảnh hưởng tới.

Cạnh tranh qua những người bán với nhau: Chủ yếu họ dùng những thủ đoạn để chiếm lĩnh thị trường, chiếm tỷ phần tiêu thụ cao nhất. Trong loại cạnh tranh này, thì công cụ giá cả là công cụ mạnh nhất, quan trọng và phổ biến nhất. Người bán có thể áp dụng mức giá thấp nhất để thu hút người mua. Như vậy cạnh tranh tạo ra một xu thế ép giá cả thị trường sát với giá trị thị trường.

Cạnh tranh giữa những người mua. Như vậy cạnh tranh tạo ra một xu thế ép giá cả thị trường sát với giá trị thị trường.

Cạnh tranh giữa những người mau với nhau: Ngừi mua cũng dùng thủ đoạn để được nhiều hàng nhất ( nếu hàng đó đang khan hiếm hoặc giá rẻ) với hiệu quả cao nhất. Mục tiêu của việc cạnh tranh này là nhắm tối đa hóa lợi ích sử dụng.

2.4 Quy luật cung cầu

Quy luật cung cầu quyết định trực tiếp mức giá thị trường thông qua sự vận động của quan hệ cung cầu. Mức giá thị trường thực hiện các chức năng: một là, cân đối cầu cung ở ngay thời điểm mua bán (và chỉ ở thời điểm đó mà thôi). Hai là, chỉ cho các nhà sản xuất biết cần phải giảm hay tăng khối lượng sản xuất, khối lượng hàng hoá cung ứng ra thị trường. Xét về mặt thời gian, giá thị trường là cái có trước quan hệ cung cầu. Đây là hiện tượng phổ biến của sự hình thành và vận động của giá cả trên thị trường. Thông qua sự vận động của giá thị trường, các nhà sản xuất có thể nhận biết tương đối chính xác cầu của thị trường và họ có thể chủ động đưa ra thị trường một khối lượng hàng hoá tương đối phù hợp với nhu cầu đó. Sự cân bằng cung cầu là cơ sở quan trọng để ổn định giá cả của từng loại hàng.

2.5 Quy luật lưu thông tiền tệ

Khi nghiên cứu chức năng của tiền tệ, Karl Marx đã đưa ra 5 chức năng: thước đo giá trị, phương tiện lưu thông, phương tiện cất trữ, phương tiện thanh toán và chức năng tiền tệ thế giới.

Nghiên cứu chức năng phương tiện, Karl Marx đưa ra quy luật lưu thông tiền tệ (quy luật về số lượng tiền cần thiết cho lưu thông như sau: “ Số lượng tiền cần thiết thực hiện chức năng phương tiện lưu thông tỷ lệ thuận với tổng số giá cả hàng hóa trong lưu thông và tỷ lệ nghịch với tốc độ lưu thông bình quân của đồng tiền cùng loại”.

Mn = PQ/V

Trong đó:

Mn: số lượng tiền cần thiết thực hiện chức năng phương tiện lưu thông

PQ: tổng giá cả hàng hóa trong lưu thông

V: Tốc độ lưu thông bình quân của tiền tệ

Nền kinh tế cần một lượng tiền nhất định cho việc thực hiện các giao dịch hàng hóa, dịch vụ, số lượng tiền này chịu ảnh hưởng của hai yếu tố cơ bản là tổng giá cả hàng hóa trong lưu thông và tốc độ lưu thông bình quân của tiền tệ. Nếu nhu cầu về tiền không thay đổi theo thời gian, thì sự gia tăng mức cung tiền danh nghĩa phải dẫn đến một lượng tăng tương đương mức giá.

Sự tác động của yếu tố tiền tệ đến sự hình thành và vận động của giá thị trường là hết sức phức tạp. Do vậy, quản lý giá cả không thể tách rời quản lý tiền tệ. Chính sách, cơ chế để phát triển thị trường tiền tệ kinh tế của đất nước. Việc quản lý giá cả phải đặt trong mối quan hệ với chính sách tiền tệ. Mục tiêu chính sách tiền tệ là ổn định sức mua của đồng tiền. Ổn định mức mua của đồng tiền chính là một trong những điều kiện ổn định giá cả hàng hóa.

2.6 Các quy luật kinh tế khách quan và quản lý của Nhà nước

Các quy luật kinh tế của thị trường tác động đến sự hình thành và vận động của giá cả thị trường. Vì vậy, trong côn tác quản lý giá, Nhà nước cần nhận thức và vận dụng các quy luật kinh tế của thị trường để quản lý và điều hành nền kinh tế nói chung và công tác giá cả nói riêng. Sự quản lý của nhà nước cần chú trọng các vấn đề sau:

Một là: thấy được vai trò của các quy luật giá trị, quy luật cung – cầu, quy luật cạnh tranh. Quy luật cung – cầu quyết định mức giá thị trường, quy luật giá trị  và quy luạt cạnh tranh không những quyết định thị trường, quy luật giá trị và quy luật cạnh tranh không những quyết định đến mức giá mà còn quyết định đến xu hướng vận động của giá cả thị trường. Quy luật cạnh tranh tạo ra xu thế giảm chi phí sản xuất, dẫn tới giảm giá thành hàng hóa và ổn định mức giá cả trên thị trường.

Hai là: Những mặt hàng có rủi ro lớn, vòng quay vốn chậm, chịu ảnh hượng lớn của thị trường thế giới, có vai trò quan trọng đố với quốc tế dân sinh, thì Nhà nước cần có những biện pháp can thiệp để ổn định giá thị trường đối với những mặt hàng này. Nhà nước có thể tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có được một lượng hàng hóa nhất định để lập quỹ dự trữ lưu thông.

Ba là: Trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam mới chuyển sang cơ chế thị trường và đang trong giai đoạn hình thành và phát triển, thì chưa đủ cơ sở vững chắc để ổn định giá, mà ổn định giá là yêu cầu tất yếu để ổn định đời sống nhân dân và nền kinh tế quốc dân. Vì vậy, Nhà nước cần có chính sách và biện pháp thích hợp để quản lý giá cả, làm cơ sở ổn định giá cả thị trường.

Từ các quy luật trên cho thấy để quản lý giá thị trường thì không thể chỉ chú ý tới việc quản lý và điều tiết thị trường hàng hoá, mà còn cần chú ý cả việc quản lý và điều tiết thị trường tiền tệ. Trong thời gian tới, các chính sách, có chế và biện pháp để phát triển nhanh thị trường tiền tệ sẽ có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển nền kinh tế của đất nước.

Trong nền kinh tế, mỗi loại hàng hoá đều có ý nghĩa kinh tế – xã hội khác nhau. Do đó, việc quản lý giá cần phải có sự phân biệt giữa các loại hàng (hay nhóm hàng).

Bạn đang đọc bài viết: Cơ chế vận động của giá cả thị trường tại chuyên mục tin Kinh doanh. Mọi chi tiết đóng góp vui lòng gửi qua thông tin sau:

thamdinhgiataisan.net@gmail.com

  097 113 8889  0936 016 589

  www.thamdinhgiataisan.net